![](http://stockbiz.vn/Handlers/GetThumbnail.axd?i=201409030352161562500&w=220) Mục tiêu chính yếu của chiến lược này là đến năm 2026, ngành sản xuất ô tô trong nước phát triển vững chắc và trong chuỗi sản xuất của ngành công nghiệp ô tô thế giới có tên Việt Nam. Làm mới chiến lược Những người xây dựng chiến lược lần này tiếp tục trao cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được trao một sứ mệnh phải trở thành ngành công nghiệp quan trọng, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa về các loại xe có lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, xe sản xuất tại Việt Nam có thể tham gia xuất khẩu, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp khác và nâng cao năng lực cạnh tranh để trở thành nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng trong chuỗi sản xuất công nghiệp ô tô thế giới. Trên thực tế, tháng 3-2002, Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã được xây dựng và phê duyệt bằng Quyết định số 175/2002/QĐ-TTg. Ở chiến lược lần đó, những mục tiêu cụ thể đã được đưa ra nhưng hầu như không có mục tiêu nào đạt kết quả cho đến năm 2010 và đó cũng là lý do phải xây dựng một chiến lược thay thế. Trong chiến lược năm 2002, những người soạn thảo chủ yếu muốn hướng đến một nền công nghiệp ô tô trong nước đạt tỷ lệ nội địa hóa cao. Theo đó, mục tiêu ngắn hạn là làm sao để ngành công nghiệp phụ trợ giải quyết từ 20-50% trong giá trị chung của chiếc xe, tùy từng chủng loại. Tuy nhiên, trên thực tế đến nay chưa có sự thừa nhận nào của các nhà sản xuất ô tô thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) là có dùng linh kiện nội địa ở tỷ lệ nhất định trong việc lắp ráp và sản xuất xe của họ. Lãnh đạo các hãng xe, trong những lần trao đổi với báo giới về chuyện này, cho biết là có một ít tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm nhưng không chỉ rõ đó là bộ phận nào trong cấu thành chung của một chiếc xe. 10 tỉ đô từ linh kiện xuất khẩu Quay trở lại chiến lược lần này, những mục tiêu cụ thể hơn đã được đưa ra. Có thể thấy đó là số lượng xe được sản xuất trong nước ở từng giai đoạn, ví dụ như đến năm 2020, sẽ có khoảng 460.000 chiếc xe ra lò, gấp hơn 4 lần hiện nay. Đến năm 2035, sẽ có hơn 1,5 triệu xe được sản xuất và lắp ráp trong nước mỗi năm. Ở ngành công nghiệp phụ trợ, chiến lược chỉ ra rõ là phấn đấu đến năm 2020, 30% cấu thành xe là do Việt Nam sản xuất (thấp hơn mục tiêu mà chiến lược năm 2002 đề ra). Tầm nhìn đến năm 2035, ngành công nghiệp phụ trợ sẽ mang về cho Việt Nam 10 tỉ đô la Mỹ từ xuất khẩu. Khi đó, chuỗi sản xuất ô tô thế giới sẽ có tên Việt Nam. Bình luận về chiến lược này, ở cương vị là Chủ tịch VAMA, ông Metelo Jesus Arias nói rằng đây là một bước đi tích cực với định hướng đúng đắn. Tuy vậy, người đại diện hiệp hội ô tô lớn nhất Việt Nam nói bản kế hoạch (chiến lược) này chưa có các chi tiết cụ thể để hướng dẫn làm sao đạt được những mục tiêu và kỳ vọng đặt ra. “Chúng tôi rất sẵn lòng hợp tác với các bộ ngành liên quan để soạn thảo những chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy các mục tiêu của chiến lược này”, ông khẳng định. Về khả năng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực ô tô, ông Metelo Jesus Arias cho rằng các nhà cung ứng nội địa có khả năng cung ứng giá trị trong chuỗi sản xuất. Tuy nhiên, do quy mô thị trường tại Việt Nam hiện còn nhỏ, các nhà sản xuất chưa đủ quy mô kinh tế để có thể cạnh tranh về chi phí. Ngành ô tô tại Việt Nam cần phải phát triển hơn nữa, và cần có giải pháp giảm chi phí sản xuất để các nhà cung ứng nội địa có thể cạnh tranh và phát triển. Trong khi đó, theo ông Laurent Genet, Tổng giám đốc Audi tại Việt Nam, với mức độ nhập khẩu ngày càng tăng từ ASEAN, chính sách công nghiệp ô tô không nên tăng thêm các điều kiện để các công ty sản xuất phụ tùng có thể thâm nhập thị trường và mở rộng số lượng hiện đang khá hạn chế ở Việt Nam. Liệu những đơn vị sản xuất phụ tùng trong nước có muốn tập trung tại một khu vực như đề nghị là điều cần phải xem xét. “Để phát triển ngành công nghiệp ô tô, Chính phủ phải có quy hoạch cơ sở hạ tầng, các quy định về việc bảo vệ môi trường để đáp ứng nhu cầu sử dụng ô tô ngày càng cao của thị trường. Việc ban hành các loại thuế hoặc phí đường bộ, phí đậu xe,... là khá cần thiết để hỗ trợ việc quản lý lưu thông”, ông Genet nói. Ông Genet cũng chia sẻ những thông tin mà ông có được liên quan đến việc các hãng xe đang đầu tư vào các nước ASEAN. Cụ thể, tính từ tháng 4-013 đến nay, 630 triệu đô la Mỹ đã được tập đoàn Great Wall đầu tư vào Malaysia để đến năm 2018 có thể sản xuất 100.000 xe xuất khẩu trong khu vực; 103 triệu đô la Mỹ của Chery Automobile cũng được rót vào Philippines để cho ra đời 20.000 xe mỗi năm vào năm 2017; 200 triệu đô la Mỹ từ Daihatsu vào Malaysia để sản xuất ra 140.000 xe hàng năm 2016...“Thời gian trở nên gấp rút hơn rồi!”, ông cảnh báo. Nam Hưng
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét